Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Roll It - Ngôi nhà cuộn tròn

TTO - Dù mới ở dạng thử nghiệm nhưng ngôi nhà độc đáo với tên gọi “Roll It” đã khiến rất nhiều bạn trẻ độc thân thích thú và ao ước được một ngày trọn vẹn sử dụng cũng như cảm nhận nó.
Một góc thư giãn
“Roll It” là ý tưởng độc đáo của hai sinh viên Christian Zwick và Konstantin Jerabek của Học viện thiết kế công nghiệp và xây dựng (Institute of Industrial design and construction output).
Dưới sự hợp tác của các viện nghiên cứu thuộc Đại học Karlsruhe (Đức), ý tưởng của Christian Zwick và Konstantin Jerabek được hoàn thiện và khi ra mắt, ngôi nhà độc đáo này được hội đồng khoa học đánh giá rất cao, thu hút sự chú ý của rất nhiều sinh viên trên khắp nước Đức.
Ngôi nhà cuộn tròn nhìn từ bên ngoài đúng là... cuộn tròn!
Có khách đến thăm nhà
Về cấu tạo bên ngoài, “Roll It” được gắn kết từ các thanh gỗ mỏng, cuộn tròn lại và bắt vít chặt chẽ với nhau tạo thành lớp áo chắc chắn. Một lớp nilông mờ phủ bên ngoài vừa giúp bảo vệ ngôi nhà khỏi mưa gió, đồng thời là nơi để in logo, tên công ty và các đơn vị tài trợ cho ý tưởng ngôi nhà thử nghiệm.
Trong không gian nội thất, “Roll It” được phân chia rõ ràng thành ba phân khu chức năng khác nhau: khu vực giường ngủ có bàn làm việc, khu vực tập thể dục và khu vực bếp nấu. Tuy nhiên, với thiết kế thông minh và khả năng xoay tròn, các khu chức năng có thể được biến hóa thành bất kỳ không gian nào, tùy theo mục đích và nhu cầu sử dụng của bạn.
Khu vực bàn làm việc
Không gian giường ngủ
Chỉ cần “cuộn” ngôi nhà, lệch đi một chút là bạn đã có được chiếc giường ngủ êm ái và thoải mái.
Nơi tập thể dục lý tưởng
“Khu vực điều khiển” nằm ở vị trí trung tâm của ngôi nhà, giúp cuộn và xoay ngôi nhà để lựa chọn và cố định các vị trí, không gian sử dụng.
Để lăn tròn ngôi nhà, bạn phải đi bộ, bám theo các gờ tường, cũng chính là các khung cửa sổ nhỏ giúp lấy ánh sáng cho toàn bộ ngôi nhà.
Chính việc lăn và xác định vị trí không gian cũng sẽ là khoảng thời gian bạn có thể tập thể dục rất lý tưởng.
Không gian phòng bếp có đầy đủ bồn rửa và ngăn để đồ
Kết cấu xoay vòng giúp ngôi nhà có được một không gian linh hoạt trong diện tích tối thiểu
Với thiết kế tiện lợi tích hợp các bánh xe bên dưới, bạn hoàn toàn có thể di chuyển và định vị ngôi nhà đến bất cứ vị trí nào.
Mới ở dạng thử nghiệm nên “Roll It” chưa được bày bán trên thị trường và cũng chưa được đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, các giáo sư nghiên cứu của Đại học Karlsruhe rất khả quan khi cho rằng ngôi nhà độc đáo này chắc chắn sẽ mở ra một thị trường nhà di động mới thú vị dành cho sinh viên và những người độc thân.
Đồng thời có thể đây sẽ là ý tưởng dành cho các nhà nghỉ ngoài trời trong các khu du lịch, nghỉ dưỡng…
HỒNG HẢI (Theo Archdaily - Furniturefashion

Sahara và con người

Hy Lạp

Tới năm 500 TCN ảnh hưởng mới từ Hy LạpPhoenicia đến tới vùng này. Các thương gia người Hy Lạp đi dọc bờ biển phía đông sa mạc, thành lập lên những khu vực buôn bán dọc theo bờ Biển Đỏ. Người Carthaginia đã khám phá bờ biển Đại tây dương của sa mạc. Vì thiếu nước và thị trường nên bước chân của con người chưa bao giờ vượt quá phía nam Ma rốc hiện nay. Vì thế, các nước bao quanh sa mạc ở phía bắc và phía đông; nó vẫn nằm ngoài quyền kiểm soát của các nước này. Những cuộc chinh phục của người du mục Berber vào sa mạc luôn làm những người sống bên rìa lo ngại.

Văn minh đô thị

Một nền văn minh đô thị, Garamantes, đã phát triển trong khoảng thời kỳ này ở trung tâm Sahara, trong một thung lũng hiện được gọi là Wadi al-Ajal tại Fazzan, Libya. Nền văn minh Garamantes phát triển nhờ vào những con kênh đào qua các sườn thung lũng tới các ngọn núi dẫn nước vào các cánh đồng. Nền văn minh Garamantes trở nên đông đúc và mạnh mẽ, chinh phục những vùng xung quanh và bắt giữ nhiều nô lệ (để sử dụng vào việc mở rộng hệ thống kênh đào). Người Hy Lạp và người La Mã đã biết tới nền văn minh Garamantes và coi họ là những người du mục mọi rợ. Tuy nhiên, họ vẫn buôn bán với người Garamantes, và một bồn tắm La Mã đã được tìm thấy ở thủ đô Garama của Garamantes. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy tám thị trấn lớn và những khu định cư quan trọng khác trong lãnh thổ Garamantes. Nền văn minh Gartamantes cuối cùng đã sụp đổ sau khi họ không còn khai thác được nước ngầm dưới đất, và vì thế không thể tiếp tục mở rộng hệ thống kênh của mình vào sâu trong núi.[4][7]

 Người Ả rập

Sự thay đổi lớn nhất trong lịch sử Sahara đến cùng cuộc chinh phục của người Ả rập, chính họ đã đưa lạc đà vào vùng này. Lần đầu tiên một mạng lưới thương mại hiệu quả xuyên sa mạc Sahara có thể thực thi. Các vương triều Sahel, đặc biệt là Đế quốc GhanaĐế quốc Mali sau này trở nên hùng mạnh và giàu có nhờ xuất khẩu vàng và muối sang Bắc Phi. Các tiểu vương quốc dọc Địa trung hải đã mang hàng hóa và ngựa của họ xuống được phía nam. Muối được xuất khẩu từ chính Sahara. Quá trình này biến những cộng đồng ốc đảo rải rác trở thành các trung tâm thương mại, và nằm dưới quyền kiểm soát của các đế quốc trên bờ sa mạc.
Hệ thống thương mại này đã tồn tại qua hàng thế kỷ tới khi sự phát triển ở Châu Âu và sự phát triển kỹ thuật hàng hải cho phép các con tàu, ban đầu từ Bồ Đào Nha nhưng ngay sau đó là toàn bộ Tây Âu, đi quanh sa mạc và thu thập các nguồn tài nguyên ở Guinea. Sahara nhanh chóng rơi lại vào tình trạng cô lập.
Các cường quốc thuộc địa cũng không chú trọng tới vùng này, nhưng ở thời hiện đại một số mỏ và các cộng đồng dân cư đã được phát triển để khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong sa mạc. Các nguồn tài nguyên này gồm khối lượng lớn khoáng sản dầu mỏkhí tự nhiênAlgérieLibya cũng như một lượng lớn khoáng sản phosphate tại Ma rốcTây Sahara.
Những sự phân tích mtDNA [8] đã cho thấy rằng nhiều cộng đồng dân cư đã góp phần tạo nên sắc dân hiện nay ở vùng Nam Ma rốc gồm Berber, Ả rập, Phoenicia, Sephardic Do Thái, và người Phi Hạ Sahara. Trên toàn bộ Sahara, người Berber, Ả rập, và người Phi Hạ Sahara đều có liên quan về mặt di truyền.

Lịch sử Sahara

Giai đoạn gia súc Tới năm 6000 TCN các tiền triều đại Ai Cập ở vùng phía tây nam Ai Cập đã biết chăn nuôi gia súc và xây dựng những ngôi nhà lớn. Sự sinh sống tại các khu định cư cố định, có tổ chức trong xã hội tiền triều đại Ai Cập ở giữa thiên niên kỷ thứ 6 TCN tập trung chủ yếu vào ngũ cốc và gia súc nông nghiệp: gia súc, , lợncừu.[5] Các đồ dùng kim loại thay thế các đồ dùng đá trước đó.[5] Thuộc da gia súc, đồ gốmdệt cũng đã xuất hiện nhiều trong thời kỳ này.[5] Có những dấu hiệu cho thấy sự chiếm cứ theo mùa hay chỉ tạm thời của Al Fayyum trong thiên niên kỷ thứ 6 TCN, với các hành động tìm kiếm lương thực tập trung chủ yếu vào, câu cá, săn bắn và hái lượm.[6] Các đầu mũi tên, daoscraper đá có rất nhiều.[6] Những đồ vật dùng trong mai táng như bình, đồ trang sức, công cụ nông nghiệpsăn bắn và các thực phẩm như thịt khô và hoa quả.[5] Người chết được chôn quay mặt về hướng tây.[5]

[sửa] Giai đoạn Berber

Người Phoenicia đã tạo ra một liên bang các vương quốc ngang qua toàn bộ Sahara tới Ai Cập, nói chung các vương quốc này đều nằm trên bờ biển nhưng cũng có một số trường hợp nằm trong sa mạc.
Tới năm 2500 TCN Sahara đã trở nên khô như ngày này và trở thành một bức tường chắn không thể xâm nhập đối với con người, chỉ có rải rác một số khu định cư xung quanh các ốc đảo, nhưng buôn bán và thương mại xuyên qua xa mạc hầu như chưa xuất hiện. Một trong những ngoại lệ chính là Thung lũng sông Nin. Tuy nhiên, con sông Nin có nhiều thác không thể vượt qua khiến thương mại và giao lưu khó thực hiện.
Ở khoảng thời gian nào đó giữa năm 633 và 530 TCN Hanno nhà hàng hải đã lập ra hay tăng cường các thuộc địa của Phoenicia ở phía Tây Sahara, nhưng mọi dấu tích quá khứ đều đã mất và thực sự không còn lại một dấu vết gì. Xem Lịch sử Tây Sahara.

Khí hậu Sahara

Khí hậu Sahara đã trải qua những biến đổi to lớn giữa ẩm và khô trong vài trăm nghìn năm qua. Trong kỷ băng hà cuối cùng, Sahara lớn hơn ngày nay, trải dài xa hơn về phía nam so với biên giới hiện tại[1]. Sự kết thúc của kỷ băng hà mang tới giai đoạn ẩm ướt hơn cho Sahara, từ khoảng năm 8000 TCN đến 6000 TCN, có lẽ vì các vùng áp suất thấp trên khắp các phiến băng đang sụp đổ ở phía bắc[2].
Khi các phiến băng đã mất đi, vùng phía bắc Sahara bắt đầu khô đi. Tuy nhiên, không lâu sau sự chấm dứt các phiến băng, gió mùa hiện nay mang mưa tới Sahel thổi xa hơn nữa về phía bắc và xung đột với xu hướng khô ở phía nam Sahara. Gió mùa tại Châu Phi (và các nơi khác) xuất hiện vì sức nóng mùa hè. Không khí trên lục địa trở nên nóng hơn và tăng lên, kéo không khí ẩm và lạnh từ biển vào. Hiện tượng này gây ra mưa. Vì thế, một cách nghịch lý, Sahara từng ẩm hơn khi nó nhận được nhiều ánh nắng trong mùa hè. Trái lại, những thay đổi trong sự hấp thu nhiệt Mặt trời bị gây ra bởi những sự thay đổi trong tham số quỹ đạo Trái đất.
Tới khoảng năm 2500 TCN, gió mùa rút về phía nam tới gần vị trí hiện nay[3], dẫn tới sự sa mạc hoá Sahara. Sahara hiện nay khô như điều kiện nó từng có trước kia khoảng 13.000 năm.[4]

Sahara

Sahara (tiếng Ả Rập: nghĩa là sa mạc) là sa mạc lớn nhất thế giới, là hoang mạc lớn thứ 3 trên trái đất, với diện tích hơn 9.000.000 km², xấp xỉ diện tích của Hoa KỳTrung Quốc. Sahara ở phía bắc châu Phi và có tới 2,5 triệu
Được bao bọc bởi Đại Tây Dương ở phía Tây, dãy núi AtlasĐịa Trung Hải ở phía Bắc, Biển Đỏ (Hồng Hải) và Ai Cập ở phía Đông; Sudan và thung lũng sông Niger ở phía Nam. Điểm cao nhất trong sa mạc là đỉnh núi Emi Koussi với độ cao 3415 m so với mực nước biển, thuộc dãy núi Tibesti phía Bắc nước Chad.
Trong suốt kỷ nguyên băng hà, vùng Sahara đã từng ẩm ướt hơn ngày nay rất nhiều. Và cũng đã từng có rất nhiều loài động, thực vật sinh sống nơi đây. Tuy nhiên ngày nay,ngoại trừ vùng thung lũng sông Nin là có thể trồng được nhiều rau và một số ít nơi khác như vùng cao nguyên phía Bắc, gần Địa Trung Hải là có thể trồng cây ôliu còn phần lớn vùng này không thể canh tác được.
Với diện tích tương đương Hoa Kỳ nhưng chỉ có 2,5 triệu người sinh sống trong vùng. Chủ yếu tập trung ở Ai Cập, Mauritania, Morocco (Ma Rốc) và Algérie. Các dân tộc chính bao gồm chủng Tuareg, Ả Rập, và nhóm người da đen như Tubu, Nubians, Zaghawa, Kanuri, Peul hay Fulani, Hausa và Songhai.
Thành phố lớn nhất vùng là Cairo, thủ đô của Ai Cập nằm ở thung lũng sông Nin. Một số thành phố quan trọng khác bao gồm Nouakchott, thủ đô của Mauritania; Tamanrasset, Algérie; Timbuktu, Mali; Agadez, Niger; Ghat, Libya; và Faya, Chad

Hoang mạc Bayuda

Hoang mạc Bayuda nằm về phía bắc Khartoum, Sudan, phía tây của Kadabas, và về phía nam của hoang mạc Nubian, và cùng với hoang mạc này tạo thành sườn phía đông của hoang mạc Sahara[1]. Hoang mạc này nằm tại tọa độ 18°B 33°Đ / 18, 33.

Kalahari có một số khu bảo tồn thiên nhiên - Khu bảo tồn trung tâm Kalahari

Kalahari có một số khu bảo tồn thiên nhiên - Khu bảo tồn trung tâm Kalahari (CKGR), là khu bảo tồn thiên nhiên lớn thứ hai trên thế giới, Khu bảo tồn Khutse và Công viên đa quốc gia Kgalagadi. Các loài động vật sinh sống trong khu vực bao gồm các loài linh cẩu nâu, sư tử, mèo hồ, một vài loài linh dương (chi Oryx) (bao gồm linh dương sừng kiếm Oryx gazella), và nhiều loài chimbò sát. Thảm thực vật ở Kalahari bao gồm chủ yếu là cỏ và các loại cây keo (chi Acacia) nhưng ở đây có trên 400 loài thực vật đã được phân loại (bao gồm dưa hấu hoang hay dưa hấu tsamma).
Khu vực này là quê hương của người Bushman (!Kung San). Ở đây có nhiều bộ lạc khác biệt, và họ không có tên chung. Tên gọi SanBasarwa đôi khi được sử dụng, nhưng những người dân không thích các tên gọi đó (San là từ trong tiếng Khoi có nghĩa là người ngoài cuộc, và Basarwa là từ trong tiếng Herero có nghĩa là người không có gì) và họ thích tên gọi "Bushman". Họ được coi là những cư dân đầu tiên của miền nam châu Phi; có những chứng cứ cho thấy họ đã từng sống cuộc đời du canh du cư chủ yếu là săn bắn-hái lượm trong ít nhất 20.000 năm qua. Người Bushman ở sa mạc Kalahari lần đầu tiên được thế giới phương Tây biết đến trong những năm 1950 khi tác giả Laurens van der Post phát hành cuốn sách nổi tiếng nhất của ông The Lost World of the Kalahari (Thế giới đã mất của Kalahari), đã được chuyển thể thành một loạt chương trình của BBC TV. Tác phẩm này và các công trình khác sau này đã nhanh chóng giúp Kalahari hình thành ra Khu bảo tồn trung tâm Kalahari năm 1961 để giúp duy trì và bảo tồn người Bushmen cũng như đất đai quê hương họ.
Năm 2002 chính quyền Botswanan đã dồn tất cả người Bushman từ đất đai của họ trong phạm vi nước này và "tái định cư" họ trong các khu tập trung cố định. Chính quyền có một số lý lẽ pháp lý khác nhau để trả lời cho hành động của họ: đó là yêu cầu để bảo tồn thiên nhiên; đó là do quá tốn kém trong sự duy trì việc cung cấp nước sạch cho người Bushman (mực nước ngầm xuống thấp do trồng trọt và các hoạt động khác); đó là "để giúp họ chia sẻ sự thịnh vượng chung của đất nước"; đó là cho họ có được những thứ tốt nhất để trở thành an cư và "văn minh". Nhóm vận động Survival International cho là lý do thật sự của việc tái định cư này là để giải phóng đất đai nhằm khai thác kim cương, nhưng một nhóm vận động vì quyền của người Bushman khác là Ditshwanelo (Tổ chức vì nhân quyền Botswana) thì chống lại điều này, họ cho rằng động cơ của chính quyền là đúng đắn, nhưng đã bị hiểu sai.
Trong khu vực này có một số mỏ khoáng sản lớn như than, đồngniken. Một trong các mỏ kim cương lớn nhất thế giới nằm ở Orapa ở Makgadikgadi, phía đông bắc của Kalahari.
Từ Kalahari có nguồn gốc từ tiếng Tswana- từ Kgalagadi, có nghĩa là "sự thiếu nước khủng khiếp".
(CKGR), là khu bảo tồn thiên nhiên lớn thứ hai trên thế giới, Khu bảo tồn Khutse và Công viên đa quốc gia Kgalagadi. Các loài động vật sinh sống trong khu vực bao gồm các loài linh cẩu nâu, sư tử, mèo hồ, một vài loài linh dương (chi Oryx) (bao gồm linh dương sừng kiếm Oryx gazella), và nhiều loài chimbò sát. Thảm thực vật ở Kalahari bao gồm chủ yếu là cỏ và các loại cây keo (chi Acacia) nhưng ở đây có trên 400 loài thực vật đã được phân loại (bao gồm dưa hấu hoang hay dưa hấu tsamma).
Khu vực này là quê hương của người Bushman (!Kung San). Ở đây có nhiều bộ lạc khác biệt, và họ không có tên chung. Tên gọi SanBasarwa đôi khi được sử dụng, nhưng những người dân không thích các tên gọi đó (San là từ trong tiếng Khoi có nghĩa là người ngoài cuộc, và Basarwa là từ trong tiếng Herero có nghĩa là người không có gì) và họ thích tên gọi "Bushman". Họ được coi là những cư dân đầu tiên của miền nam châu Phi; có những chứng cứ cho thấy họ đã từng sống cuộc đời du canh du cư chủ yếu là săn bắn-hái lượm trong ít nhất 20.000 năm qua. Người Bushman ở sa mạc Kalahari lần đầu tiên được thế giới phương Tây biết đến trong những năm 1950 khi tác giả Laurens van der Post phát hành cuốn sách nổi tiếng nhất của ông The Lost World of the Kalahari (Thế giới đã mất của Kalahari), đã được chuyển thể thành một loạt chương trình của BBC TV. Tác phẩm này và các công trình khác sau này đã nhanh chóng giúp Kalahari hình thành ra Khu bảo tồn trung tâm Kalahari năm 1961 để giúp duy trì và bảo tồn người Bushmen cũng như đất đai quê hương họ.
Năm 2002 chính quyền Botswanan đã dồn tất cả người Bushman từ đất đai của họ trong phạm vi nước này và "tái định cư" họ trong các khu tập trung cố định. Chính quyền có một số lý lẽ pháp lý khác nhau để trả lời cho hành động của họ: đó là yêu cầu để bảo tồn thiên nhiên; đó là do quá tốn kém trong sự duy trì việc cung cấp nước sạch cho người Bushman (mực nước ngầm xuống thấp do trồng trọt và các hoạt động khác); đó là "để giúp họ chia sẻ sự thịnh vượng chung của đất nước"; đó là cho họ có được những thứ tốt nhất để trở thành an cư và "văn minh". Nhóm vận động Survival International cho là lý do thật sự của việc tái định cư này là để giải phóng đất đai nhằm khai thác kim cương, nhưng một nhóm vận động vì quyền của người Bushman khác là Ditshwanelo (Tổ chức vì nhân quyền Botswana) thì chống lại điều này, họ cho rằng động cơ của chính quyền là đúng đắn, nhưng đã bị hiểu sai.
Trong khu vực này có một số mỏ khoáng sản lớn như than, đồngniken. Một trong các mỏ kim cương lớn nhất thế giới nằm ở Orapa ở Makgadikgadi, phía đông bắc của Kalahari.
Từ Kalahari có nguồn gốc từ tiếng Tswana- từ Kgalagadi, có nghĩa là "sự thiếu nước khủng khiếp".

Sa mạc Kalahari

Sa mạc Kalahari là một khu vực lớn chứa cát bán khô cằn đến khô cằn ở miền nam châu Phi có diện tích khoảng 500.000 km². Nó chiếm 70% diện tích của Botswana, và một phần của Zimbabwe, NamibiaNam Phi. Một số tài liệu cho rằng khu vực này rộng tới 2,5 triệu km² và bao gồm cả Gabon, Cộng hòa Congo, Cộng hòa dân chủ Congo, AngolaZambia.
Kalahari có phần lớn diện tích được bao phủ bởi cát nâu đỏ và không có nước bề mặt lâu bền. Việc dẫn lưu của nước là theo các thung lũng khô, các vùng lòng chảo ngập nước theo mùa, cũng như các lòng chảo cát rộng lớn của Lòng chảo Makgadikgadi ở Botswana và Lòng chảo Etosha ở Namibia. Tuy nhiên, Kalahari không phải là một sa mạc thực thụ. Một số khu vực của Kalahari nhận được trên 250 mm nước mưa thất thường hàng năm và chúng là phù hợp cho thực vật phát triển; nó chỉ thực sự là khô cằn ở miền tây nam (dưới 175 mm nước mưa hàng năm) làm cho Kalahari là một sa mạc hóa thạch. Nhiệt độ về mùa hè ở Kalahari dao động trong khoảng từ 20 đến 40 °C. Về mùa đông, Kalahari có khí hậu khô và lạnh với sương muối về đêm. Nhiệt độ trung bình cuối mùa đông có thể đạt tới dưới 0 °C.